Đặc điểm PPSh-41

Bài hoặc đoạn này cần được wiki hóa theo các quy cách định dạng và văn phong Wikipedia.
Xin hãy giúp phát triển bài này bằng cách liên kết trong đến các mục từ thích hợp khác.

Mọi súng tiểu liên trước và trong thế chiến thứ hai đều đơn giản. Thậm chí nếu so sánh về mức độ phức tạp trong tính toán thiết kế, súng ngắn liên thanh còn đơn giản hơn súng kíp nòng trơn. Hầu hết súng tiểu liên đều hoạt động bằng cơ cấu blowback - cơ cấu chuyển động đơn giản nhất của các loại súng bộ binh. PPSh-41 cũng vậy.

Ngoài thiết kế đơn giản, dễ chế tạo và dễ sử dụng, những khẩu PPSh-41 không đòi hỏi việc nó phải được trải qua các công đoạn gia công bằng các phương pháp phức tạp, tốn kém cả về thời gian cũng như công sức (như những khẩu súng trường hay súng máy khác). Hàng nghìn cây PPSh 41 đã được sản xuất với số lượng lớn tại các nhà máy sản xuất vũ khí được sơ tán ra phía sau dãy núi Ural kể từ khi quân Đức Quốc Xã tràn vào xâm lược lãnh thổ Liên Xô vào năm 1941. Bản thân nòng của khẩu PPSh-41 cũng có cùng cỡ nòng với khẩu Mosin Nagant (7.62mm) nên khi làm nòng cho khẩu PPSh-41 thì chỉ cần cưa nòng của khẩu Mosin Nagant, mạ crom và gia công lại một chút là có ngay nòng để lắp vào súng. Việc này lại càng giúp tiết kiệm chi phí sản xuất của súng.

Đạn 7,62x25mm Tokarev có đường đạn và khả năng xuyên tốt hơn nhiều so với đạn 9x19mm của Đức hoặc đạn .45 ACP (11,43x23) của Hoa Kỳ. Đạn là một phiên bản nâng cấp từ đạn súng ngắn 7,63×25mm Mauser. Có thể nói nền móng thành công của 7.62x25mm Tokarev7,63×25mm Mauser. Vỏ đạn cổ thắt, có gờ móc đạn rất thích hợp cho các súng tự động. Đầu đạn dài, được thiết kế kỹ lưỡng cho đường đạn ngoài tốt nhất có thể. Thuốc súng là loại viên định hình bền chắc, áp suất thấp giảm chậm, tương tự như thuốc đạn súng trường chiến đấu 7,92x57 Mauser7,62×54mmR. Có thể nói 7,63×25mm Mauser và 7,62×25mm Tokarev được thiết kế bằng cách rút ngắn chiều dài đạn súng trường để trở thành đạn súng ngắn. Các loại đạn này chỉ có thể phát huy đầy đủ ưu điểm trên các súng ngắn liên thanh có máy tự động, hơn là bị giới hạn trên các mẫu súng ngắn bán tự động là Mauser C96TT-33. Đạn cũng ưu việt hơn nhiều so với các đạn quá áp vỏ trụ dùng thuốc bột phổ biến lúc đó như 9x19mm. Một loại đạn nổi tiếng thế giới khác là đạn súng trường tiến công 7,62×39mm cũng được thiết kế theo lý thuyết là "rút ngắn đạn súng trường" như đạn của khẩu PPSh-41.

Với đạn 7,62×25mm Tokarev, PPSh-41 đạt tầm bắn chính xác tới 200m với nòng dài 269mm. Trong khi đó MP-40 của Đức dùng đạn 9×19mm Parabellum có nòng dài tương đương (251mm) chỉ dừng lại ở mức 100 - 150 mét. Khẩu Thompson của Mỹ dùng đạn .45 ACP với nòng dài 270mm còn kém hơn nữa, chỉ đạt 50 - 100 mét.

Ngoài ưu thế về đạn, PPSh-41 còn có tốc độ bắn lên tới 900 phát/phút, tạo ra ưu thế hỏa lực chế áp tầm gần và xung phong. Điều này được củng cố thêm bởi hộp tiếp đạn trống 71 viên làm tăng khả năng duy trì hỏa lực, hạn chế thời gian phải nạp lại đạn. Thời đó, trong biên chế một tiểu đội chỉ có từ một tới hai súng liên thanh như PPSh-41, còn lại là súng trường chiến đấu Mosin-Nagant, SVT-40 và một súng máy hạng nhẹ Degtyarov DP. Khi xung phong, nhất là trong trường hợp tấn công chiến hào hoặc những địa hình chật hẹp, do súng trường chiến đấu bắn quá chậm, trong khi súng máy thì nặng và có độ giật tương đối cao, những binh sĩ mang các loại súng này khó có thể phản ứng kịp với các tình huống phát sinh đột ngột thường xảy ra, như là đọ súng ở tầm rất gần. Súng ngắn liên thanh trong giai đoạn chưa xuất hiện súng trường tấn công là một lựa chọn tối ưu, và thực sự chúng được phát minh cho việc xung phong. Thậm chí ngày nay các súng ngắn liên thanh vẫn chiếm lợi thế khi chiến đấu trong các công trình nhỏ hẹp vì tính năng nhỏ gọn, nhẹ nhàng, có độ giật thấp.

Tuy nhiên do hạn chế về vật liệu, loại hộp tiếp đạn tròn 71 viên khá nặng nên phải dùng thép 0,5mm làm vỏ để giảm trọng lượng. Vỏ hộp tiếp đạn mỏng làm hộp tiếp đạn dễ bị móp bẹp do va chạm, làm kẹt lò xo xoay cần đẩy đạn. Chính lò xo này cũng khá yếu do Liên Xô lúc đó rất khan hiếm vật liệu tốt. Trong khi thiết kế súng, nhà thiết kế Shpagin đã để thừa một viên, hay đúng hơn là sức đàn hồi cao nhất của lò xo có thể đẩy được 71 viên. Sau đó ông khuyến khích binh sĩ không nên nạp đầy 71 viên để lò xo không phải làm việc hết sức, duy trì tuổi thọ. Súng đã nạp đạn băng tròn 71 viên khá là nặng (5,45 kg), vì vậy loại hộp tiếp đạn thẳng chứa 35 viên cho PPSh-41 đã ra đời để khắc phục nhược điểm này, mặc dù chứa được ít đạn hơn nhưng nhẹ và bền chắc hơn, việc thay băng đạn cũng nhanh hơn so với băng tròn 71 viên. Mặt khác, loại hộp tiếp đạn này làm xạ thủ thoải mái hơn, có thể dùng hộp tiếp đạn như tay cầm trước. Tuy nhiên khả năng mang nhiều đạn của loại hộp tiếp đạn 71 viên vẫn được binh sĩ ưa chuộng, do tốc độ bắn của súng khá nhanh để sử dụng băng đạn 35 viên. Các xạ thủ súng liên thanh của Hồng Quân thường lắp sẵn một hộp tiếp đạn loại 71 viên vào súng trước khi xung phong hoặc thâm nhập vào những nơi chật hẹp, khi bắn hết hộp đạn 71 viên này thì họ sẽ chuyển sang dùng lần lượt 5 (hoặc 7) hộp đạn loại 35 viên được đeo sẵn bên người.

Về dáng súng, PPSh-41 vẫn mang đặc điểm từ khẩu MP 18 (của Đức) là báng gỗ liền hộp khóa nòng, có cổ báng súng làm vị trí tay cầm sau, khiến cho tư thế ngắm không được thoải mái cho lắm, chưa áp dụng thiết kế hiện đại như khẩu MP-40 (của Đức Quốc Xã) hay khẩu Thompson (của Hoa Kỳ). Thay vì có vị trí cầm trước ở phía trước cửa lắp hộp tiếp đạn như súng Thompson để xạ thủ có thể giữ súng thoải mái, chắc chắn, có tư thế tốt để tận dụng ưu thế đường đạn, súng PPSh-41 phải giữ tay ở vị trí dưới hộp tiếp đạn, gần cổ báng súng, hoặc giữ băng đạn. Mặc dù nòng súng có lồng thép bọc ngoài đề phòng khả năng xạ thủ bị bỏng do tiếp xúc với nòng súng, nhưng không thể dùng bộ phận này thay ốp lót tay cầm trước vì không có chức năng cách nhiệt. Thực ra việc bố trí vị trí cầm trước đối với PPSh-41 là bất khả thi vì hộp tiếp đạn trống khá to làm tư thế nâng súng bị vướng. Các súng tiểu liên thời kỳ đầu có máy súng rất dài. Các mẫu súng phổ biến là PPSh-41, MP-40 và Thompson M1A1 có tỷ lệ chiều dài thân súng (hộp khóa nòng của súng) - nòng súng vào khoảng 1:1. Do đó khẩu súng khá dài. PPSh-41 không có thiết kế đẩy cụm cò và vị trí cầm sau về gần cửa lắp hộp tiếp đạn (kéo theo báng được đẩy về trước để duy trì chiều dài báng vừa phải) để rút ngắn chiều dài toàn bộ khẩu súng như Thompson , nên khoảng cách giữa vị trí cầm trước (nếu có) và đế báng súng tì vào vai khá xa nhau, tương đương với khoảng cách của súng trường. Khoảng cách như vậy chỉ thích hợp cho súng trường cần kiểm soát tốt góc hướng để ngắm xa, nhưng sẽ làm mất ưu thế linh hoạt quan trọng nhất khi chiến đấu tầm gần và rất gần.

Thompson M1928 và M1A1 được Hoa Kỳ chấp nhận trang bị làm súng tiểu liên chủ lực của Quân đội Mỹ và họ đem viện trợ với số lượng khá lớn cho Liên Xô trong giai đoạn đầu của Chiến tranh thế giới thứ hai. Súng Thompson có dáng súng rất thành công khi hỗ trợ cả linh hoạt tầm gần và kiểm soát góc tầm trung, thích hợp cho khả năng bắn chính xác tới 200m nếu dùng đạn 7,62x25mm Tokarev. Nhưng khẩu Thompson dùng loại đạn .45 ACP có đầu đạn nặng, sơ tốc đạn thấp, đường đạn kém, nên chỉ thích hợp với chiến đấu ở tầm rất gần (dưới 50 mét đổ lại). Súng không có tốc độ bắn cao như PPSh-41 và không lắp được hộp tiếp đạn 50 viên như ở phiên bản M1A1 Thompson. Với trọng lượng 4,9 kg (khi chưa nạp đạn) và chỉ có hộp tiếp đạn 30 viên, súng kém hơn cả PPSh-41 và MP-40 về tỉ lệ trọng lượng - tính năng chiến đấu. Bộ binh Liên Xô tỏ ra không ưa thích số súng bộ binh được Mỹ viện trợ.

Súng tiểu liên MP-40 tiêu chuẩn của quân Đức Quốc Xã có dáng súng chuẩn súng ngắn liên thanh. Súng cũng có báng và tay cầm sau tách rời nhau. Vị trí cầm trước chính là hộp tiếp đạn. Kiểu cầm súng này cộng với báng gập bằng thép làm súng rất gọn, rất có lợi thế chiến đấu tầm gần, nhất là xoay trở trong các địa hình chật hẹp. Với tầm bắn chính xác tới 100 mét, xạ thủ không cần phải quan tâm tới tư thế bắn cần kiểm soát hướng đối với mục tiêu ở cự li xa hơn. Đây là khẩu súng tiểu liên thành công nhất thời đó trong phương diện thiết kế dáng súng, tận dụng tốt đường đạn và đáp ứng được yêu cầu kỹ chiến thuật cơ bản của Súng tiểu liên. Dù vậy, MP-40 kém hơn PSPSh-41 về tầm bắn và tốc độ bắn, và cũng dễ hỏng hóc hơn. Lịch sử cũng ghi nhận rất nhiều trường hợp binh sĩ Đức bỏ khẩu MP-40 của mình để sử dụng PPSh-41. Thậm chí một số lượng kha khá PPSh-41 phiên bản dùng đạn 9x19mm do quân Đức cải tiến đã xuất xưởng và được sử dụng ở Mặt trận phía đông. Thiếu tướng - kỹ sư Alexei Sudayev của Liên Xô đã sử dụng dáng súng ưu thế của MP-40 vào thiết kế của ông và cho ra đời khẩu PPS-43, một phiên bản gọn nhẹ, đơn giản và rẻ tiền hơn PPSh-41 nhưng lại có dáng súng tốt hơn.

PPSh-41 được công nhận là một trong những khẩu súng tiểu liên tốt nhất Chiến tranh thế giới thứ hai, và là biểu tượng của lính Hồng quân trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại.